Tham vấn tâm lý với tư cách là một ngành nghề thật sự vẫn còn là một lĩnh vực mới ở Việt Nam, và thuật ngữ “Tham vấn” (Counseling) có thể không được hiểu theo cùng một cách như phương Tây (Courtland, 2008). Trên thực tế, tại Hội thảo khoa học toàn quốc về Tư vấn tâm lý – giáo dục tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2006, các vấn đề về đạo đức trong tham vấn lần đầu tiên đã được trình bày một cách khái quát bởi một vài nhà tâm lý học là những người được đào tạo ở trình độ tiến sỹ hoặc thạc sỹ tại nước ngoài. Những nhà tâm lý này đã giới thiệu những nguyên tắc và nền tảng của các vấn đề đạo đức trong chuyên ngành tham vấn và trị liệu tâm lý, họ cũng lưu ý đến vai trò chuyên nghiệp của các chuyên viên tham vấn tâm lý (Xem Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về Tư vấn Tâm lý và Giáo dục, 2006).
Bài viết này tập trung bàn luận về những ranh giới chủ yếu và phổ biến trong lĩnh vực tham vấn tâm lý trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, là nơi mà tôi đã và sẽ hành nghề như một nhà tham vấn tâm lý chuyên nghiệp. Những chủ đề này bao gồm: các giới hạn về tính chuyên nghiệp, những cuộc gặp gỡ và giao tiếp ngoài văn phòng, mối quan hệ tham vấn đặt trên nền tảng quan hệ gia đình, và vấn đề quà tặng và phong bì tiền.

1. Ranh giới trong tham vấn tâm lý là gì?
1.1. Định nghĩa
Ranh giới trong tham vấn tâm lý là một thuật ngữ để nói về cái “khung” trong mối quan hệ giữa chuyên viên tham vấn tâm lý (từ đây gọi là chuyên viên) và thân chủ (Zorn, 2009). Theo Gutheil và Gabbard (1993), khái niệm ranh giới bắt nguồn từ hiện tượng gia tăng hàng loạt các trường hợp có hành vi không đúng liên quan đến tình dục trong mối quan hệ giữa chuyên viên và thân chủ. Các tác giả này cũng chỉ ra rằng những ranh giới trong quan hệ trị liệu mang tính chất chủ quan rất cao và thiếu các chuẩn mực đánh giá.
1.2. Giá trị của ranh giới trong tham vấn tâm lý
Mối quan hệ giữa chuyên viên và thân chủ là một yếu tố rất quan trọng, có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của tiến trình tham vấn. Có một làn ranh giữa các mối quan hệ chuyên môn và quan hệ cá nhân, hay nói cách khác, khi một nhà tham vấn chuyển từ vai trò chuyên môn sang vai trò có tính chất cá nhân thì điều đó có thể gây ra những tổn hại cho thân chủ. Chính vì thế mà bằng cách nhận thức rõ ràng về những ranh giới trong tham vấn, các chuyên viên có thể quản lý và bảo vệ cho thân chủ của mình khỏi những tổn hại tiềm ẩn.
2. Giới thiệu sơ lược về văn hóa Việt Nam
2.1. Đất nước của tục ngữ
Tương tự với các quốc gia Á châu khác, người Việt Nam thường dùng các câu tục ngữ một cách khá phổ biến trong giao tiếp hằng ngày, trong giáo dục gia đình, và trong các môi trường chuyên môn như giáo dục, văn chương… Theo tác giả Nguyen (1969, trích lại từ Nguyen, Foulks, và Carlin, 1991, trang 313), “Có tới khoảng hơn ba ngàn câu tục ngữ được sử dụng bởi những người Việt Nam có giáo dục mang tính truyền thống, những người này được yêu cầu phải nhớ một khối lượng khổng lồ những câu tục ngữ này và họ được chú ý như là những học giả kinh điển.” Với việc sử dụng các câu tục ngữ, người Việt Nam cảm thấy thoải mái hơn trong các giao tiếp hằng ngày, nhất là trong những tình huống có mâu thuẫn với nhau.
Nguyen, Foulks, và Carlin (1991) cũng tìm thấy rằng có rất nhiều câu tục ngữ được sử dụng trong môi trường lâm sàng bởi những nhà tâm lý trị liệu người Việt Nam. Sau đây là một số ví dụ: “Chửi chó mắng mèo”, hay “Chó cắn quanh”, nói đến việc một ai đó cứ la lối “nhặng xị”, om sòm lên một cách không trực tiếp đến đối tượng nào. Những câu tục ngữ này thể hiện như là một cơ chế phòng vệ, ở đây là cơ chế Chuyển đối tượng (Displacement); một ví dụ khác là câu tục ngữ “No nên bụt, đói nên ma”, có nghĩa khi no bụng thì người ta hiền lành, còn khi đói ăn thì người ta trở thành “quỷ sứ”. Câu tục ngữ này được sử dụng như cơ chế phòng vệ Giải thích hợp lý (Rationalization) cho một hành vi của ai đó.
Đặc điểm vừa đề cập trên đây cũng có một mối liên hệ có ý nghĩa đến đặc trưng giao tiếp không trực tiếp trong văn hóa Việt Nam, nói cách khác là người Việt Nam không trực tiếp nói ra những gì họ muốn hay không muốn, những gì họ đang nghĩ đến hay không nghĩ đến, vân vân. Borton (2000, trang 22) mô tả, “Người Việt Nam thường dùng các tục ngữ và ngụ ngôn mà bề ngoài có vẻ như không có liên quan gì đến vấn đề đang nói, họ mô tả cái bối cảnh theo một kiểu xoắn ốc chằng chịt một cách tinh tế, khéo léo hướng đến vấn đề cần nói ra, điều này có thể làm cho người phương Tây không thể bắt được vấn đề.”.
2.2. Văn hóa của tập thể chủ nghĩa và duy cảm chủ nghĩa
Khác với văn hóa phương Tây, văn hóa Việt Nam là văn hóa của tính cộng đồng và tập thể chủ nghĩa. Từng cá nhân người Việt Nam không chỉ sống cho đời sống riêng của anh/ chị ta, nhưng họ còn sống cho người khác, đặc biệt là với những người có mối quan hệ thân thiết với họ như những thành viên trong gia đình, hay bạn bè thân. “Ở Việt Nam, gia đình được xem như là một cộng đồng thu nhỏ, nơi cung cấp các nguồn lực về tài chính và những hỗ trợ cá nhân, nơi chăm sóc người lớn tuổi và trẻ con, nơi lưu giữ những nghi lễ truyền thống, và là ngôi nhà của tổ tiên” (Brower, 1980, trang 650). Nói cách khác, người Việt Nam xem chính bản thân họ như là một phần trong một tập thể lớn hơn, mà cái trung tâm điểm trong tập thể đó chính là gia đình hoặc gia đình mở rộng của họ (Smith và Pham, 1996). Dựa trên viễn cảnh tập thể chủ nghĩa đó, người Việt Nam thường không đưa ra những quyết định mang tính cá nhân, nhưng thường là cùng với hoặc sau khi đã hỏi ý kiến người khác, đặc biệt là cha mẹ của họ.
Theo Giáo sư Trí Việt (2008), Việt Nam dường như là đại diện duy nhất cho văn hóa/ khuynh hướng Duy cảm chủ nghĩa (Sensationalism). Ông khẳng định rằng người Việt Nam không suy nghĩ bằng cái đầu mà là bằng cái bụng của họ. Vì thế, người Việt Nam thường năng động hơn, thực tế hơn, và linh hoạt hơn, vân vân. Người Việt Nam thường “Nghĩ bụng” (giao tiếp bên trong với chính mình) khi họ suy nghĩ và chuẩn bị để nói hoặc làm một điều gì đó. Từ điểm này, người Việt Nam thường có tư duy khá là không logic, khá tự do, và hành động không có tính chất giới hạn.
3. Những ranh giới trong tham vấn tâm lý trong bối cảnh văn hóa Việt Nam
3.1. Những giới hạn chuyên môn
Rất nhiều người Việt Nam (bao gồm cả các chuyên viên) có một sự hiểu biết một chiều về tham vấn tâm lý. Trong nhận thức của họ, chuyên viên có thể được nhìn như là một người cung cấp một số lời khuyên đặc biệt hoặc một số kỹ năng để thân chủ có thể giải quyết các vấn đề khó khăn. Từ đó, ngay từ giai đoạn khởi đầu của sự phát triển ngành tham vấn tâm lý tại Việt Nam (khoảng những năm 1990) và tiếp tục cho đến hiện nay, có rất nhiều chuyên viên nỗ lực để trở thành một “người cho lời khuyên tốt” hoặc là một “người giải quyết vấn đề cho thân chủ”.
Theo các tác giả Đỗ và Trần (Kỷ yếu Hội thảo, 2006), những khó khăn chính yếu của các chuyên viên tham vấn Việt Nam có liên quan đến kiến thức và những kinh nghiệm chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. Các tác giả này đã chỉ ra rằng có rất hiếm các chuyên viên Việt Nam được đào tạo trong lĩnh vực tham vấn tâm lý, và thậm chí có rất nhiều chuyên viên (khoảng 50%) là không được đào tạo trong lĩnh vực tâm lý học hoặc những ngành khác có liên quan.
Bên cạnh đó, ở Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ một tổ chức hoặc một Ủy ban nào có trách nhiệm quản lý và hướng dẫn cho những chuyên viên này trong các các hoạt động chuyên môn của họ, vì thế mà có nhiều chuyên viên có thể chỉ dựa trên những kinh nghiệm riêng của chính họ để làm việc và cung cấp các dịch vụ tham vấn (một cách không chuyên nghiệp) cho thân chủ.
Những hạn chế về chuyên môn này là những ranh giới chính yếu mà có thể làm ảnh hướng đến chất lượng các dịch vụ tham vấn tâm lý tại Việt Nam. Những ranh giới này không hẳn là đặc điểm văn hóa của Việt Nam, nhưng trên thực tế chúng có mối liên hệ khá lớn với văn hóa Việt Nam. Bởi vì người Việt Nam thường dễ dàng cảm thấy “hài lòng” với những giới hạn của họ (Trí Việt, 2008), và họ dường như cố gắng tránh né (không muốn) việc thúc đẩy hoặc đối đầu với người khác, nên họ thường có khuynh hướng chấp nhận những gì mà họ đang có (một số người nước ngoài có thể hiểu lầm đặc điểm này của Việt Nam khi họ cho rằng người Việt Nam thụ động và “lười”).
3.2. Những cuộc gặp và giao tiếp ngoài văn phòng làm việc
Tại Việt Nam, những gì mà thân chủ và chuyên viên đã thảo luận (các sự kiện, sự việc…) trong phòng tham vấn có thể không chính xác là tất cả những gì thân chủ muốn nói hoặc muốn bộc lộ ra ngoài. Thân chủ có thể cố gắng liên lạc với chuyên viên để có những cuộc trao đổi ngoài văn phòng (thường là qua email hoặc điện thoại). Dường như môi trường bên ngoài văn phòng làm việc làm cho thân chủ cảm thấy thoải mái hơn để nói các vấn đề của họ. Một thân chủ có thể cố gắng để thể hiện sự tôn trọng/ trân trọng và tin tưởng chuyên viên bằng cách mời chuyên viên đó tham dự các sự kiện bên ngoài có liên quan đến cuộc sống của họ chẳng hạn như tiệc sinh nhật, tiệc cưới, vân vân.
Về vấn đề này, Brower (1980) cho rằng chuyên viên tham vấn nên bắt đầu với cha mẹ hoặc những thành viên lớn tuổi trong gia đình trước. Trong nhiều trường hợp, những thành viên trong gia đình của thân chủ thường cố gắng liên lạc với chuyên viên để hỏi về buổi tham vấn đã được diễn ra như thế nào và họ cũng cung cấp thêm nhiều thông tin hơn về thân chủ, đó là những thông tin mà họ cho rằng có tầm quan trọng đối với tiến trình tham vấn. Những buổi gặp gỡ, những cuộc giao tiếp này có thể không diễn ra trong phòng tham vấn bởi vì cha mẹ hay những thành viên lớn tuổi trong gia đình không nghĩ rằng việc đó là cần thiết.
Trong thực tế, những buổi gặp hay giao tiếp bên ngoài văn phòng này có thể mang lại ích lợi cho thân chủ trong một chừng mực nào đó, tuy nhiên mặt khác nó cũng có thể tạo ra những tác động không tích cực đến thân chủ và đến tiến trình tham vấn.
3.3. Những mối quan hệ tham vấn đặt trên nền tảng quan hệ gia đình
Rất gần với đặc điểm văn hóa gia đình, văn hóa cộng đồng của người Việt Nam, mối quan hệ giữa chuyên viên và thân chủ có thể dễ dàng đi từ mối quan hệ chuyên môn, công việc đến mối quan hệ có tính chất gia đình. Điều này không mang ý nghĩa đúng hay sai, tuy nhiên những mối quan hệ trong tham vấn đặt trên nền tảng quan hệ gia đình cũng giống như hai mặt của một đồng xu, có thể tạo ra những ảnh hưởng tích cực và cả tiêu cực đến hiệu quả của tiến trình tham vấn.
Trong văn hóa Việt Nam, vào lúc bắt đầu một mối quan hệ người ta thường xác định vị trí/ vai trò xã hội của nhau, điều mà Borton (2000) gọi là “mối quan hệ đúng”. Đây là điều rất quan trọng đối với người Việt Nam trong mọi môi trường. Trong môi trường tham vấn, vào những buổi đầu của tiến trình, thân chủ có thể gọi nhà trị liệu là “Chuyên gia”, tuy nhiên vào những buổi tham vấn tiếp sau đó khi mà mối quan hệ giữa chuyên viên và thân chủ đã gần gũi hơn thì thân chủ rất có thể sẽ gọi và nhìn chuyên viên như là một thành viên đặt biệt trong gia đình của họ.
Chẳng hạn, chuyên viên có thể được xem như là “chú hoặc cô” hay “anh hoặc chị” nếu chuyên viên lớn tuổi hoặc nhỏ hơn cha mẹ của thân chủ một ít; hoặc trong trường hợp khác khi chuyên viên là người còn trẻ thì thân chủ có thể xem anh/ chị ta như là “cháu hoặc em”.
Vấn đề là trong văn hóa Việt Nam, mọi người từ nhỏ đã được dạy rằng không nên/ không được đặt câu hỏi với những người có uy quyền, đặc biệt là với người cha (Brower, 1980). Những thành viên trẻ trong gia đình phải có sự tôn trọng và vâng lời những thành viên lớn hơn. Như vậy, trong cả hai trường hợp, chuyên viên được xem như người ở vai trò “lớn hơn” hay “nhỏ hơn” đều có thể tạo ra những ảnh hưởng khác nhau trên tiến tình tham vấn. Với hình ảnh chuyên viên là một người “ở trên”, thân chủ có thể lắng nghe và trả lời “Vâng” trong mọi điều mà chuyên viên nói ra, và ngược lại với hình ảnh chuyên viên là một người “ở dưới”, thân chủ có thể chỉ muốn chuyên viên lắng nghe họ và/ hoặc làm những gì mà họ muốn…
3.4. Các món quà và “phòng bì tiền”
Quà cáp và “phòng bì tiền” được xem là một vấn đề nhạy cảm nhưng đồng thời cũng rất phổ biến ở Việt Nam. Trong môi trường kinh doanh, người Việt Nam thường trao đổi qua lại những món quà nhỏ như là một biểu tượng của tình hữu nghị và được chào đón… đối với đối tác hoặc những vị khách mời (Borton, 2000). Trong môi trường tham vấn, điều hết sức bình thường và khá phổ biến đó là thân chủ muốn gởi tặng cho chuyên viên của họ những món quà (nhỏ hoặc lớn) và/ hoặc một phong bì bên trong có tiền vào những dịp/ những sự kiện trong đời sống xã hội hoặc cá nhân của chuyên viên, và nhất là trong buổi làm việc kết thúc tiến trình tham vấn. Những dịp để tặng quà và phong bì tiền có thể là Ngày nhà giáo Việt Nam (khá nhiều chuyên viên đồng thời cũng là nhà giáo), ngày Thầy thuốc Việt Nam (thân chủ có thể nhìn chuyên viên như là một bác sỹ), ngày Phụ nữ Việt Nam (dành riêng cho chuyên viên nữ), ngày Tết, và vân vân.
Người Việt Nam có câu “có qua có lại”, nói đến việc khi bạn gởi cho ai đó một thứ gì, thì đồng thời bạn cũng sẽ (hoặc mong đợi sẽ) nhận được một thứ khác từ người kia, hoặc câu “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”, nghĩa là đồng tiền mà bạn dùng để gởi cho ai đó ngay từ đầu khi cần sự giúp đỡ của họ là đồng tiền “có giá trị”. Khi thân chủ gởi cho các chuyên viên những món quà nhỏ thì điều đó có thể là bình thường vì thân chủ muốn bày tỏ sự quý mến hoặc trân trọng của họ, tuy nhiên khi thân chủ gởi cho chuyên viên một “phong bì tiền” thì có thể họ muốn được nhận lại nhiều hơn những gì là bình thường. Người Việt Nam cũng thường cảm thấy khó nói “Không” với người khác. Thực tế có nhiều chuyên viên không muốn nhận một phong bì tiền như vậy, nhưng đồng thời họ lại cũng không biết làm sao để có thể từ chối.
Ngô Minh Uy
Saigon 2009

